Lịch sử 8000 năm của Ngọc Hòa Điền

Sơ lược về ngọc Hòa Điền

Từ hàng ngàn năm trước, con người nguyên thủy đã sử dụng những công cụ bằng đá để chế tác trang sức, nông cụ và vũ khí. Tuy nhiên có một loại đá đặc biệt hơn tất cả, đó là “ngọc”. Ngọc, mát và khó chạm, nhưng đẹp một cách duyên dáng, dịu dàng và ấm áp khi nhìn vào. Ngọc là yếu tố bất biến, chịu đựng được thời gian. Ngọc được người xưa vì thế gắn cho chúng ý nghĩa tâm linh và văn hóa vô cùng sâu sắc.

Ngọc được người xưa cho là chứa nhiều khí 氣 (là lực hoặc năng lượng quan trọng). Những tác phẩm bằng ngọc tuyệt đẹp này được tạo thành theo khái niệm âm 陰dương 陽 thành các đĩa bích 璧 tròn và tông 琮 (ống tròn vuông), và chúng được đánh dấu bằng dấu hiệu thần thánh và hình ảnh tổ tiên cũng như các ký hiệu “được mã hóa”. Một sức mạnh của “mối quan hệ” sinh ra từ “tạo vật bắt chước tự nhiên”, vì vậy họ (người tiền sử) hy vọng, những sẩm phẩm tâm linh này sẽ cho phép họ đối thoại với Thần tối cao, người đã truyền sự sống thông qua các sinh vật thần thoại và do đó tạo ra con người. Xuất phát từ niềm tin vật linh ban đầu này, đã hình thành nền văn hóa Rồng và Phượng độc đáo.

“Ngọc” trong bài viết này đề cập đến loại đá nào, xin các bạn hãy tìm hiểu về bài viết “Ngọc Hòa Điền – Đặc điểm, nhận biết và cách thẩm định giá trị“

Chủ nghĩa nhân văn đến cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội. Ý nghĩa của ngọc dần dần tách khỏi các thuộc tính vật linh: đồ trang trí bằng ngọc có hình rồng, phượng, hổ và đại bàng. Ngọc tiếp đến được hiểu mới như là đức tính của quý ông trong Nho giáo: nhân từ, khiêm tốn, thông thái, lòng dũng cảm và sự chính trực.
Trong sáu triều đại và thời đại Tùy-Đường, làn sóng ảnh hưởng từ nước ngoài liên tiếp đến và tác động đáng kể đến nghệ thuật ngọc bích của Trung Quốc. Không có ngọc trong sáng về tinh thần hay Nho giáo, tầng lớp văn nhân mới hình thành trong triều đại nhà Tống và nhà Nguyên quan tâm đến cả thiên nhiên và con người; nghệ thuật của họ là tìm kiếm chủ nghĩa hiện thực và sự thật. Nghệ thuật chạm khắc trên ngọc thể hiện tinh hoa của nền văn hóa Tống và Nguyên.


Thời đại đồ đá mới

Lịch sử 5000 năm của Ngọc Hòa Điền bắt đầu từ các di tích văn hóa được khai quật trong thời đại đồ đá mới. Khẳng định rằng đã có những đồ tạo tác bằng ngọc Hòa Điền ở trong mọi khía cạnh của cuộc sống người dân thời bấy giờ. Tuy nhiên, giá trị nghệ thuật của các cổ vật bằng ngọc được khai quật là không cao, có thể do thời đó chưa có kinh nghiệm chế tác ngọc nên hình dáng của các cổ vật bằng ngọc được tạo ra rất đơn giản. kỹ thuật và công cụ chạm khắc hiện vật bằng ngọc còn hạn chế nên bản thân hầu hết các hiện vật bằng ngọc đều không có tác dụng nghệ thuật.


Văn hóa Hồng Sơn – Bí ẩn thời đồ đá

Văn hóa Hồng Sơn(giản thể: 红山文化; phồn thể: 紅山文化; bính âm:Hóngshān Wénhuà) là một nền văn hóa thời đại đồ đá mới ở tại đông bắc Trung Quốc. Các di chỉ thuộc văn hóa Hồng Sơn được phát hiện tại một xứ khu vực trải rộng từ khu Nội Mông đến Liêu Ninh(Hoa Bắc) của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có niên đại có từ khoảng tầm 4700 TCN đến 2900 TCN.

Các đồ tùy táng của nền văn hóa Hồng Sơn bao gồm một vài trong số những mẫu chế tác ngọc sớm nhất được biết đến. Văn hóa Hồng Sơn được biết đến với tượng rồng hình C, tượng người ngoài hành tinh, tượng các con giống (các bản ghi lại quá trình tổng hợp DNA, tượng người (đàn ông và phụ nữ qua các thời kỳ). Chất liệu làm tượng rất phong phú nhưng chủ yếu làm từ các loại ngọc, thiên thạch…. Đặc biệt, đồ đồng và hợp kim đồng với thiên thạch đã xuất hiện. Công cụ,kỹ thuật để tạo tác những đồ vật này vẫn còn là một bí ẩn cho đến ngày nay.

Cũng như văn hóa Ngưỡng Thiều, các di chỉ thuộc văn hóa Hồng Sơn cung cấp các bằng chứng cổ xưa nhất về phong thủy. Sự hiện diện của cả hình tròn và vuông tại các trung tâm nghi lễ của văn hóa Hồng Sơn cho thấy sự hiện diện ban đầu của thuyết vũ trụ “trời tròn đất vuông”.Phong thủy ban đầu dựa trên thiên văn học để tìm ra mối quan hệ giữa con người và vũ trụ.

Đây rõ là nền văn minh đầu của Trung Quốc(Cũng như của Triều Tiên).


Ở Nội Mông

Hàng chục hiện vật bằng ngọc bích đã được khai quật từ Khu văn hóa Hưng Long Oa ở Nội Mông. Hầu hết các hiện vật bằng ngọc bích này là ngọc Hòa Điền, cho đến nay là di tích văn hóa ngọc Hòa Điền sớm nhất ở Trung Quốc.

Những di chỉ đầu tiên ở Tân Cương

Tại Lâu Lan ở Tân Cương , các nhà khảo cổ học Tân Cương đã phát hiện ra một chiếc rìu thời kỳ đồ đá mới làm bằng ngọc trắng mỡ cừu của người Hòa Điền, và một số chiếc rìu bằng ngọc được làm bằng thanh ngọc Hòa Điền, to bằng rìu sắt và có chất lượng cao.

Vùng đồng bằng trung tâm

Ngọc Hòa Điền không chỉ được sử dụng rộng rãi ở Tân Cương, mà còn liên tục được truyền bá và vận chuyển đến vùng đồng bằng Trung tâm, trở thành vật phẩm chính trong trao đổi thương mại. Các đồ tạo tác bằng ngọc Hòa Điền được khai quật tại Di tích Văn hóa Ngưỡng Thiều ở miền trung sông Hoàng Hà hơn 6000 năm trước . Có thể thấy rằng ngọc Hòa Điền đã được vận chuyển đến Thiểm Tây , Cam Túc và những nơi khác vào thời điểm đó.


Nhà Thương và nhà Chu

Trong các triều đại nhà Thương và nhà Chu, ngọc Hòa Điền trở thành biểu tượng của nghi lễ và địa vị chính trị, và hình dạng và phưởng pháp sử dụng trong trang trí của chúng dần dần trở nên phong phú. Trải qua một thời gian dài, kỹ thuật sản xuất và gia công ngọc đã được cải thiện.

Thẻ bài hoàng ngọc này có hình rồng và phượng được chạm khắc trên cả hai mặt. Đây là một tác phẩm của triều đại Tây Chu giữa thế kỷ 10 và 9 trước Công nguyên.

Cùng với sự phát triển của văn hóa, khả năng thưởng thức nghệ thuật của con người cũng được cải thiện đáng kể, vì vậy họ hiểu sâu hơn về cách làm đẹp từ ngọc, và cách làm cho viên ngọc ấy trở nên đẹp để thưởng làm. Ví dụ, các sản phẩm làm từ ngọc của triều đại nhà Thương và nhà Chu thường được chạm khắc hoa văn, chẳng hạn như hoa văn rồng, hoa văn phượng và hoa văn mây.


Thời Xuân Thu và Chiến Quốc

Lịch sử của Ngọc Hòa Điền nối tiếp đến Nhà Chu, đặc biệt là thời Xuân Thu sử dụng ngọc nhiều hơn, có thể kể đến là những phát hiện từ di tích Thiểm Tây của nhà Tây Chu, Hồ Bắc với lăng mộ thời Chiến quốc của Hầu tước. Thời kỳ Chiến Quốc là một đỉnh cao khác trong sự phát triển về tính nghệ thuật của ngọc Hòa Điền. Các sách cổ thời Tiền Tần, như ” Thượng thư “, ” Nhĩ Nhã “, ” Quản Tử “, ” Lã Thị Xuân Thu “, đều ghi lại một loại ngọc bích tuyệt đẹp được khai thác ở dãy núi ở Côn Lôn . Đèn ngọc có hoa văn móc câu trong Bảo tàng Cố Cung là ngọc Hòa Điền khai thác ở khu vực ấy. Các nho sĩ thời bấy giờ đã dùng ngọc Hòa Điền để thể hiện thực hiện các nghi thức tâm linh.

Ngọc và Nho Giáo

Để thích ứng với mục têu của tầng lớp người cai trị và thể hiện đều đó thông qua một sản phẩm tâm linh như ngọc Hòa Điền, các khái niệm truyền thống của Nho giáo về nhân, trí, nghĩa, lễ, lạc, trung, tín, thiên, địacác đức hạnh đã được so sánh với các đặc điểm khác nhau gắn liền với các tính chất vật lý và hóa học của ngọc Hòa Điền. Theo đó, “quý nhân đức hơn ngọc”, và các học thuyết về năm đức, chín đức và mười một đức tính của ngọc đã ra đời. Những quan niệm về “Chiết xuất của ngọc, phú cho tư tưởng triết học và đạo đức; hình thức của ngọc, phú cho tư tưởng âm dương và tôn giáo;tỉ lệ của ngọc, phú cho thứ bậc cao quý và địa vị chính trị” đã tóm tắt lý thuyết mức độ nghiên cứu ngọc học và ngọc Hòa Điền thời bấy giờ. Đây là cơ sở lý thuyết lâu dài của nghệ thuật chạm khắc ngọc của Trung Quốc và là trụ cột tinh thần cho sữ đam mê ngọc kéo dài 8.000 năm của người dân Trung Quốc.

Vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc, ngọc đã được sử dụng như một vật mang tư tưởng và văn hóa Nho giáo. Trong thời kỳ này, có rất nhiều loại ngọc, như bích, tông, khuê, quyết, bội, hoàng, quảng, theo công dụng của chúng, một số học giả đã chia chúng thành lễ nghi dụng ngọc, tang táng dụng ngọc, trang sức dụng ngọc và thực dụng ngọc. Việc sản xuất ngọc Hòa Điền thời kỳ này ngày càng tinh xảo và khéo léo, việc nắm bắt hình dáng để điêu khắc, chạm khắc ngày càng thành thạo, hình dáng của ngọc cũng như giá trị văn hóa của nó ngày càng phong phú hơn.


Nhà Hán, Ngụy và nhà Tấn

“Sử ký – Đại Uyển Liệt Truyện” có ghi: “Nhà Hán làm cho nguồn sông trở nên nghèo, nguồn sông đến từ Hòa Điền, nơi núi có nhiều ngọc”; “Hán Thư – Tây Vực Truyện” có ghi: “Vương quốc Sache có ngọc ”. Tác phẩm “ Hải nội thập châu ký ” của nhà văn Tây Hán Đông Phương Sóc từng ca ngợi ngọc Hòa Điền là “tinh túy của bạch ngọc”.


Con đường tơ lụa

Con đường tơ lụa(giản thể: 丝绸之路; phồn thể: 絲綢之路; Hán-Việt: Tơ trù chi lộ; bính âm:sī chóu zhī lù, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ:İpekyolu) là một hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối châu Á với châu Âu (cách hay nói là giữa phương Đông và phương Tây).

Con đường tơ lụa to lớn bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh, Trường An (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận toàn châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Triều Tiên và Nhật Bản (Và thậm chí là ở 2 miền Bắc-Nam Việt Nam). Nó có chiều dài khoảng 4.000 dặm, hay là 6.437 km.

Lịch sử của ngọc bích Tân Cương Hòa Điền thực sự trở thành loại ngọc chính thống được sử dụng bởi tầng lớp thượng lưu ở Trung Quốc bắt đầu khi Hán Vũ Đế của nhà Hán mở ra con đường tơ lụa ở Trung Á và được giới thiệu về ngọc được mang đến từ Tây Vực. Tư Mã Thiên đời Tây Hán ghi lại trong “Đại Uyển Liệt Truyện”: “Nhà Hán làm cho nguồn sông nghèo, núi đầy ngọc.” Chữ “nghèo” ý rằng ngọc chất lượng cao Tân Cương Hòa Điền thời nhà Hán rất khó tìm. Nói cách khác, trước thời nhà Hán, tỷ lệ ngọc của Tân Cương Hòa Điền trong tổng số ngọc bích được sử dụng chính thức ở Trung Quốc là rất nhỏ do nguồn cung nguyên liệu ngọc khan hiếm.


Ngọc trong thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều

Nói chung, đồ ngọc của các triều đại Ngụy, Tấn, Nam và Bắc triều kém xa so với thời nhà Hán. Trong các triều đại Ngụy, Tấn, Nam và Bắc triều, văn hóa ngọc bích của Trung Quốc đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ cổ đại sang trung đại. Đồ ngọc thời kỳ này dần dần bị chiếm ưu thế bởi ngọc trang trí và ngọc dụng thực tế, thay cho ngọc mang tính tâm linh ở các thời đại trước. Đồ bằng ngọc bắt đầu phổ biến trong dân chúng. Phong cách chạm khắc đơn giản sử dụng và trang trí đơn giản.

Ngọc trong Thời Tam Quốc

Kể từ thời Tam Quốc , sự phát triển của ngọc Hòa Điền đã đi vào suy thoái do ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh. Khi nhà Tấn tiến xuống phía nam, việc vận chuyển hàng hóa giữa Đồng bằng Trung tâm và Tây Vực khó khăn hơn, điều này cũng gây trở ngại cho việc xuất khẩu ngọc của Hòa Điền. Tuy nhiên, việc sử dụng ngọc Hòa Điền vẫn không hề bị gián đoạn, trong hoàng gia, “quý phi, phu nhân, tam phu nhân đều đeo ngọc Hòa Điền”. Thời đó , dân gian lấy thuốc chủ yếu là lấy bột ngũ thạch, ngoài ra còn lấy dăm ngọc bích, lấy dăm bào của bạch ngọc Hòa Điền. Cát Hồng có nói: “Ngọc bích cũng là thuốc tiên, nhưng hiếm có được… Ngọc thô đã tốt, Bạch ngọc Hòa Điền lại còn đặc biệt tốt.“.

Vào năm Vĩnh Minh thứ ba (485), Nam Tề Vũ Đế của Nam triều “đã phái sứ thần đầu tiên đến Hà Nam. Vào năm Vĩnh Minh thứ sáu, phát hiện viên ngọc bích cao ba thước hai tấc dài và dày một thước một tấc.” “Các sứ thần của Nam triều phải mất ba năm mới đi qua khu vực Thổ Dục Hồn, và chỉ sau đó họ mới thu được một miếng ngọc Hòa Điền lớn. Còn đối với một số chế độ ly khai ở vùng Tây Bắc, họ tiếp tục nhập ngọc trực tiếp từ Hòa Điền. Khi Lương Ý Vũ Đế thành lập chế độ nhà nước Hậu Lương ở địa danh nay là Vũ Uy, Cam Túc, ông đã gửi một phái đoàn đến Hòa Điền để mua ngọc bích “Lã Quang được mệnh danh là vua, sai mua sáu con dấu từ Hòa Điền, nhận vào tháng sáu.”


Nhà Tùy và nhà Đường

Trong các triều đại nhà Tùy và nhà Đường, việc khai thác ngọc Hòa Điền tiếp tục được ghi nhận trong các ghi chép lịch sử. Đường Huyền Trang từ Ấn Độ trở về Trung Quốc và đi ngang qua Đường Nam Thiên Sơn, ông đã mô tả về các loại ngọc ở vùng Hòa Điền hiện nay trong đó có bạch ngọc và hoàng ngọc. Vào thời điểm đó, Hòa Điền đã có mối liên hệ thông thương với nhà Đường, và vào năm Trinh Quán thứ sáu (632), Hòa Điền đã cử sứ giả mang đến một chiếc đai ngọc.

Ngọc vào đầu thời nhà Đường

“Cựu Đường Thư – Tây Vực Truyện” ghi rằng Hòa Điền đã ” tạo ra những viên ngọc đẹp … vào năm Trinh Quán thứ sáu, sai sứ đến mang đai ngọc”. “Minh Sử – Tây Vực Truyện” ghi rằng ở Hòa Điền “có sông Bạch Ngọc ở phía đông, sông Lục Ngọc và sông Mặc Ngọc ở phía tây, tất cả đều bắt nguồn từ dãy núi Côn Lôn. Khi nhìn thấy ánh trăng vào ban đêm, và nhìn xuống nước và sẽ thấy được những viên ngọc tuyệt sắc” . Ba con sông ngọc màu trắng, ngọc màu xanh và ngọc màu đen ngày nay là sông Bạch Ngọc Hà , sông Hòa Điền và sông Karakash.

Vào năm Kiến Trung thứ nhất (780), Đường Đức Tông lên ngôi, “Cử nội ứng Châu Như Ngọc đến An Tây, tìm ngọc Hòa Điền. Mang về 5 miếng bội, 1 cái gối, 300 cái đai, 40 cái trâm, 30 hộp gương, 10 cái vòng, 3 cái chày, đều bằng ngọc” Điều này cho thấy vào giữa thời Đường, đã có một quy mô đáng kể về ngành nghề chạm khắc ngọc bích ở Hòa Điền. Theo các ghi chép tài liệu, việc nhập ngọc Hòa Điền và giao thương với Hòa Điền không phát triển mạnh ở các triều đại nhà Tùy và nhà Đường. Vào thời điểm đó, giao thương giữa Trung Quốc và phương Tây lại khá phát triển, ngoài việc buôn bán triều cống giữa các quốc gia, các thương nhân Sogdian chủ yếu chịu trách nhiệm về thương mại phi chính phủ, dưới thời Hoàng đế Đường Huyền Tông.

Ngọc vào cuối thời nhà Đường

Vào cuối thời nhà Đường, khi bối cảnh lịch sử thay đổi và văn hóa và nghệ thuật của Trung Á và Tây Á xâm nhập vào vùng đồng bằng Trung tâm, ngọc Hòa Điền dần mất đi linh khí huyền bí của chúng. Thay vào đó ngọc trở thành thứ thân thuộc và đi vào nhà của những người bình dân. Kể từ đầu thời nhà Đường, chất liệu “ngọc” khi được nhắc đến chủ yếu được sử dụng từ ngọc Hòa Điền. Các hoa văn trên ngọc thời kỳ này hoàn thiện hơn, đường nét chạm khắc cũng rất tinh xảo và sống động, lúc này đồ ngọc bắt đầu sử dụng hoa văn, hoa lá chạm khắc giống thật.


Thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc

Trong thời Ngũ Đại, các chế độ ly khai ở phía tây bắc, chẳng hạn như quân Quy Nghĩa ở Sa châu (nay thuộc Đôn Hoàng), tàn dư của Thổ Phiền ở Lương Châu và những nơi khác, người Duy Ngô Nhĩ và người Hòa Điền ở Tây Châu đều xuất ngọc Hòa Điền vào nội địa. Trong số đó, người Duy Ngô Nhĩ ở Cam Châu đã cống nạp nhiều nhất. vào năm Tống Quốc thứ hai của nhà Hậu Đường đến nhà Hậu Chu, trong sáu năm Hiển Đức (924-959), có mười sáu lần nhập ngọc . Các chất liệu ngọc mà các chế độ này cống nạp thường được đo bằng “tuấn”, thường được gọi trực tiếp là ngọc tuấn, và có một ví dụ về một quả cầu bằng ngọc nặng tám cân.

Vào thời điểm đó, sản lượng ngọc bích của Hòa Điền là tương đối lớn. Số lần cống ngọc của người Duy Ngô Nhĩ ở Cam Châu thường được đếm trong hàng chục đến hàng trăm đoàn. Vua Lý Thánh Thiên của Hòa Điền thậm chí còn gửi một sứ thần cống nạp một nghìn cân ngọc. Trong quá khứ, triều đình độc quyền bán ngọc Hòa Điền, vào năm đầu tiên của Chu Thái Tổ năm Quảng Thuận thứ nhất (951), việc buôn bán này đã được mở ra. Từ đó về sau, việc buôn bán ngọc Hòa Điền trở nên năng động trong dân, mặc dù triều đình đã cố gắng độc quyền thương mại trở lại trong các triều đại nhà Minh và nhà Thanh, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với sự xâm nhập của ngọc Ngọc Hòa Điền vào nhà của những người dân thường và việc thương mại hóa việc sản xuất ngọc Hòa Điền.


Nhà Tống

Việc sử dụng ngọc Hòa Điền trong thời nhà Tống đã vượt qua thời đại nhà Đường. Theo ghi chép của “Tống sử – Hòa Điền Truyện” và “Tống Hội Yếu Tập Cảo – Phiên Di Tứ”, Hòa Điền không chỉ thường xuyên cống nạp ngọc bội cho nhà Tống mà còn đứng đầu về số lượng cống phẩm. Bộ sách ” Du hoạn kỷ văn” của Trương Thế Nam có 5 ghi chép, trng đó có: ” Đồ dùng nghi lễ và trang phục hầu hết là ngọc Hòa Điền”, cho thấy rằng giai cấp thống trị thời đại này cũng đã trưng dụng ngọc Hòa Điền.

Trương Thế Nam cũng ghi lại các kênh nhập khẩu và phân loại ngọc Hòa Điền vào thời nhà Tống: “Nó có lẽ là báu vật của thế giới hiện tại, phần nhiều xuất phát từ nhiều Tây Bắc nước Tây Hạ ở núi Ngũ Đài. Ngọc bích của nước Hòa Điền được chia thành năm màu .. . Chỉ có xanh lam cùng xanh lục đồng cấp, còn màu trắng phân thành chín hạng.” Ngoài việc dựa vào nước Hòa Điền trực tiếp cống nạp, ngọc Hòa Điền nhập vào đại lục có nhiều hơn nữa là từ các chế độ ly khai tây bắc, đặc biệt là Tây Hạ. “Tống Sử – Hòa Điền Truyện” có ghi rằng người Duy Ngô Nhĩ ở Qui Từ, Cao Xương, Cam Châu và Sa Châu dọc theo Con đường Tơ lụa đã từng tặng ngọc bích cho nhà Tống. Vào năm Cảnh Hựu thứ ba của triều đại Bắc Tống (1036), Tây Hạ Cảnh Tông đánh chiếm Hồi Cốt, chiếm hành lang Cam Túc và nắm quyền kiểm soát việc buôn bán tơ lụa. Ngoài việc đi qua Tây Hạ, ngọc Hòa D(iền lúc này cũng đã được nhập khẩu vào Thiểm Tây thông qua Tsongkha (nay là Tây Ninh, thuộc tỉnh Thanh Hải) và các khu vực do các bộ tộc khác cai trị.

Triều Liêu và Kim

Các triều đại Liêu và Kim cai trị miền bắc Trung Quốc đã kế thừa và phát triển truyền thống dụng ngọc Hòa Điền. Không chỉ những người cai trị thuộc tầng lớp thượng lưu mới tuân theo hệ thống nghi lễ sử dụng ngọc Hòa Điền ở Đồng bằng Trung tâm, người dân thường cũng có thể đeo ngọc (đai ngọc), và phụ nữ cao tuổi sử dụng miếng ngọc Hòa Điền để trang trí khăn trùm đầu của họ, được gọi là “Tức Ngọc Đới ”. Để duy trì đặc quyền của mình, nhà cai trị cấm “thường dân” trang trí dây nịt bằng ngọc, nhưng lúc này ngọc đã không còn là vật phẩm độc quyền của giới quý tộc và quan lại. Điều này chắc chắn đã thúc đẩy sản lượng của Ngọc Hòa Điền. Theo Tập 26 của “Khiết Đan Quốc Chí”, “Cao Xương Quốc tặng ngọc cho người Khiết Đan ba năm một lần. Việc buôn bán giữa nước Tây Hạ và triều Liêu và Kim chủ yếu sử dụng ngọc Hòa Điền.


Nhà Nguyên

Các sản phẩm bằng ngọc Hòa Điền thời nhà Nguyên được phát triển trên cơ sở kế thừa các sản phẩm ngọc của triều đại nhà Kim và nhà Liêu. Vật liệu chính được sử dụng là bạch ngọc Hòa Điền và thanh bạch ngọc Hòa Điền, và công nghệ chế tác điển hình là chạm rỗng nhiều lớp. Kỹ thuật chạm rỗng nhiều lớp đã được phát triển đến mức cực thịnh vào thời nhà Nguyên, ngoài việc chạm khắc hoa văn hai lớp mặt ngoài, sản phẩm ngọc còn có thể được chạm khắc thành nhiều lớp, hoa văn có thể lên tới năm hoặc sáu lớp, các lớp và độ sâu của mỗi lớp là khác biệt, tạo nên hiệu ứng phối cảnh mạnh mẽ.

Tự do buôn bán ngọc

Vào đầu triều đại nhà Nguyên, chính quyền trung ương trực tiếp kiểm soát việc khai thác ngọc Hòa Điền. Các hộ gia đình khai thác ngọc ngọc tập trung ở thượng nguồn sông Karakash. Ngọc mà họ thu thập được đã được vận chuyển đến Đại Đô. Vào năm Chí Nguyên thứ 10 (1273), Nguyên Thái Tổ ra lệnh cho thợ ngọc tên Lý Tú Tài lấy ngọc từ Hòa Điền. Nửa sau triều đại nhà Nguyên, Hãn quốc Duy Ngô Nhĩ kiểm soát vùng Tân Cương ngày nay, và ngọc Hòa Điền hoặc được bán vào nội địa thông qua các thương nhân người Hui, hoặc do Nguyên Vương phía Tây Bắc cống nạp. Thời nhà Nguyên cũng có rất nhiều thợ chế tác ngọc, chỉ riêng Nam Thành Đại Đô đã có hơn 100 hộ gia đình sống. “Bên ngoài cổng Quảng An Môn của Nam Đô. Có hơn 100 hộ gia đình ở đó, tất cả đều làm nghề mài ngọc. Đó là một làng nghề mài ngọc nổi tiếng. “


Nhà Minh

Vào thời nhà Minh, các khu vực sản xuất ngọc là Hòa Điền và Shache chịu sự cai trị của Hãn Quốc Sát Hợp Đài và Hãn Quốc Diệp Nhĩ Khương, và kênh chính để ngọc Hòa Điền xuất khẩu vào đại lục vẫn là thương mại triều cống. Tập sách ” Thiên Công Khai Vật” của Tống Ứng Tinh trong đó cũng đưa ra một bản tóm tắt sinh động về lịch sử, đặc điểm và phương pháp sử dụng ngọc Hòa Điền.

Vào năm Hồng Võ đầu tiên (1368), Minh Thái Tổ muốn làm một con dấu bằng ngọc, đã lấy ngọc từ các thương nhân từ các vùng đất phía Tây . Vào năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), nước Thổ Lỗ Phiên cử sứ thần đến cống ngọc, kể từ đó, các nước Tây Vực đều cống nạp ngọc. Theo “Minh Sử – Tây Vực Truyện”, Hòa Điền, Samarkand, Buishi Bali, Badansha, v.v … liên tiếp được cống nạp ngọc cho nhà Minh, đặc biệt là Hami và Thổ Lỗ Phiên .

Sơn ngọc xuất hiện thay thế tử ngọc

Từ giữa thế kỷ 15, ngọc trên núi Hòa Điền đã được khai thác trên quy mô lớn, nhưng hầu hết các tác phẩm của triều đại nhà Minh đều chỉ đề cập đến việc khai thác ngọc từ các con sông ở Hòa Điền. Có thể là do thương nhân Tây Vực lo ngại người mua ở Trung Nguyên sẽ không còn trả giá cao sau khi hiểu rằng sơn ngọc dễ kiếm hơn tử ngọc, nên họ không tiết lộ bí mật khai thác ngọc núi này. Sự thật ấy chỉ được biết sau một thế kỷ. Nền tảng của việc khai thác quy mô lớn ngọc bích từ núi ở Hòa Điền là sự gia tăng lớn nhu cầu về sử dụng ngọc của mọi tầng lớp trong xã hội vào thời nhà Minh.

Gia tăng sản lượng

Trong giao thương giữa Tây Vực và Trung Nguyên, ngọc Hòa Điền đã trở thành mặt hàng quan trọng nhất. Trước năm Thiên Khải thứ nhất (1621), chỉ sáu cửa hàng do nội phủ phụ trách mới có thể bán năm nghìn kim nguyên liệu ngọc Hòa Điền vào Bắc Kinh một năm. Akebo Chidayi, một doanh nhân Bukhara đã đến thăm Trung Quốc vào khoảng năm Hoằng Trị thứ 13 (1500) , cho biết: “Ở Trung Quốc, không có mặt hàng nào đắt hơn ngọc bích.” ngựa, len thô, len, khối ngọc bích, kim cương, v.v . Sự phong phú của nguồn ngọc bích không chỉ thay đổi nghề thủ công ngọc mà còn mở rộng đáng kể thị trường ngọc, và cuối cùng khiến những người bình thường có cơ hội trở thành người sử dụng ngọc bích Hòa Điền.


Nhà Thanh

Xu hướng ủng hộ ngọc Hòa Điền lên đến đỉnh điểm vào thời nhà Thanh, đặc biệt là vào thời Càn Long, tác phẩm “ Đại Vũ Trị Thủy Đồ Ngọc Sơn ” do ông chỉ đạo điêu khắc là tác phẩm được làm bằng ngọc Hòa Điền lớn, tốn nhiều nhân lực và thời gian lâu nhất. Những tác phẩm chạm khắc đắt nhất, lớn nhất là những tác phẩm làm từ ngọc Hòa Điền. Càn Long đã bỏ ra một khoản tiền khổng lồ để thu thập những khối ngọc khổng lồ nặng đến 10.000 lạng từ Tân Cương cách Bắc Kinh hàng nghìn dặm, nhân lực và tài lực phải mất ba năm mới có thể vận chuyển vào nội địa, và mất bảy năm vận chuyển nhiều cung đường khác nhau ở Dương Châu để điêu khắc. “Đại Vũ Trị Thủy Đồ Ngọc Sơn”, từ khi khai thác đến khi hoàn thành tác phẩm cuối cùng, sau hơn mười năm, không có dữ liệu chính xác về giờ làm việc và chi phí, nhưng ước tính sơ bộ là ít nhất hàng trăm nghìn lao động, chưa tính lượng tiền bạc tiêu thụ.

“Vũ Trị Thủy Đồ Ngọc Sơn” do Hoàng Đế Càn Long chỉ đạo điêu khắc là tác phẩm được làm bằng ngọc Hòa Điền lớn, tốn nhiều nhân lực và thời gian lâu nhất.

Nghề thủ công ngọc Hòa Điền của triều đại nhà Thanh rất giỏi trong việc dựa trên những thành tựu của hội họa, điêu khắc và nghệ thuật, tích hợp những tinh túy ấy cùng sự thành thạo kĩ thuật chạm khắc của các triều đại đã qua. Ngoài ra nghề chạm khắc ngọc còn tiếp thu ảnh hưởng của nghệ thuật nước ngoài, pha trộn và thích nghi, tạo ra và phát triển một nghề thủ công mạnh mẽ, nghề thủ công chạm khắc ngọc đã đạt được tính nghệ thuật đỉnh cao.


Lời kết

Cách đây hơn tám nghìn năm, tiền nhân của chúng ta đã học được rằng “ngọc” là một loại đá của vẻ đẹp và sự vĩnh cửu. Trong suốt quá trình phát triển gần tám thiên niên kỷ, ngọc đã dần biến đổ từ tạo vật có thuộc tính vật linh, cho đến biểu trưng về tính nhân văn của Nho Giáo, rồi đến mô tả cả thiên nhiên và con người, chủ nghĩa hiện thực và sự thật.